Điểm mới của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2025
Ngày19/02/2025, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 64/2025/QH15 được thông qua, thay thế Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, sửa đổi năm 2020 và sẽ có hiệu lực từ 01/04/2025. Sau đó, nhằm phù hợp với sự thay đổi về mô hình chính quyền địa phương hai cấp cũng như những thay đổi trong sắp xếp đơn vị hành chính trong cả nước từ 01/07/2025, Luật sửa đổi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2025 số 87/2025/QH15 đã được Quốc hội thông qua và sẽ chính thức có hiệu lực từ 01/07/2025. Sau đây, Luật Việt An sẽ cập nhật các điểm mới của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2025.
Sửa đổi bổ sung quy định về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
Nghị quyết của Chính phủ trở thành văn bản quy phạm pháp luật
Trước đây, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 với chủ trương đơn giản hóa hình thức văn bản quy phạm pháp luật, Luật năm 2015 đã bỏ hình thức Nghị quyết và chỉ giữ lại 01 hình thức văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ ban hành là Nghị định.
Tuy nhiên, từ 01/04/2025, theo khoản 5 Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2025 đã bổ sung thêm hình thức văn bản quy phạm pháp luật Chính phủ được ban hành là Nghị quyết.
Lý giải điều này, Bộ Tư pháp cho biết do thực tiễn công tác chỉ đạo, điều hành và phản ứng chính sách của Chính phủ, đặc biệt là trong giai đoạn phòng, chống đại dịch Covid-19 và phục hồi kinh tế đã đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu, bổ sung thẩm quyền của Chính phủ trong việc ban hành một hình thức văn bản riêng (ngoài Nghị định) với quy trình xây dựng, ban hành nhanh gọn, kịp thời để văn bản có hiệu lực sau khi ban hành và xử lý ngay vấn đề thực tiễn phát sinh.
Quy định thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở cấp xã
Trước 01/7/2025, tại Điều 4 Luật số 64/2025/QH15, hệ thống văn bản pháp luật không bao gồm: Quyết định của Chủ tịch UBND cấp tỉnh; Nghị quyết và quyết định của cấp xã.
Theo quy định mới tại Luật sửa đổi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2025, số 87/2025/QH15, kể từ ngày 01/7/2025, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật sẽ có thêm 03 loại văn bản mới, gồm:
Quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã;
Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã.
Cụ thể, tại khoản 4 Điều 1 Luật này, sửa đổi Điều 22 Luật số 64/2025/QH15, quy định:
HĐND cấp xã ban hành nghị quyết về các nội dung được giao trong luật, nghị quyết của Quốc hội, chính sách phát triển kinh tế – xã hội địa phương;
UBND cấp xã ban hành quyết định để thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của cấp trên, thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương.
Thay đổi hình thức từ quyết định Tổng Kiểm toán nhà nước ban hành sang hình thức thông tư
Thay đổi 01 hình thức từ quyết định Tổng Kiểm toán nhà nước ban hành sang hình thức thông tư để bảo đảm tính tương đồng, thống nhất với hình thức văn bản quy phạm pháp luật do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành.
Rút ngắn thời gian ban hành luật từ 22 tháng xuống 12 tháng
Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 tại Mục 1 Chương II, quy trình xây dựng, ban hành Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết phải được thực hiện qua 02 bước với tổng thời gian tối thiểu khoảng 22 tháng:
Lập đề nghị xây dựng để đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm (thời gian thực hiện cần tối thiểu 10 tháng)
Sau khi được đưa vào Chương trình, các cơ quan sẽ tiến hành soạn thảo, trình dự thảo văn bản để Quốc hội xem xét, thông qua theo tiến độ đã được xác định trong Chương trình (thời gian thực hiện tối thiểu 12 tháng).
Từ 01/4/2025, theo Chương II Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2025 quy định đổi mới quy trình chính sách theo hướng:
Tách quy trình chính sách ra khỏi quy trình lập dự kiến Chương trình lập pháp hằng năm thành 02 mục riêng biệt (Mục 1, Mục 2 Chương II)
Phân định rõ quy trình chính sách và quy trình soạn thảo (Mục 2 và Mục 3 Chương II)
Theo đó, chỉ quy định thực hiện quy trình 02 giai đoạn (xây dựng chính sách và soạn thảo) Luật, Pháp lệnh mới; Luật, Pháp lệnh thay thế các Luật, Pháp lệnh hiện hành; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật có nội dung hạn chế quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp; Nghị quyết thí điểm của Quốc hội. Đối với các luật, pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều và các nghị quyết thì sẽ thực hiện quy trình soạn thảo mà không cần thực hiện quy trình chính sách.
Như vậy, điểm mới của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2025 là có thể rút ngắn thời gian ban hành luật có thể rút từ 22 tháng xuống 12 tháng.
Xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn và trường hợp đặc biệt
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 từ Điều 50 đến Điều 52 đã kế thừa quy định về xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn của Luật năm 2015 và sửa đổi, bổ sung một số quy định sau:
Quy định rõ thời điểm đề xuất áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn là trước hoặc trong quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm tính linh hoạt, tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn ở bất kỳ thời điểm nào, khi phát sinh yêu cầu cần áp dụng;
Cho phép áp dụng thủ tục rút gọn để xây dựng thông tư trong tất cả các trường hợp, tương tự như các loại văn bản quy phạm pháp luật khác; giao Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ sẽ tự quyết định việc ban hành thông tư theo thủ tục rút gọn mà không cần phải xin ý kiến Bộ Tư pháp và báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định;
Quy định rõ trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo thủ tục rút gọn với mục tiêu vừa đơn giản, hợp lý hoá quy trình nhưng vừa phải bảo đảm chất lượng của văn bản.
Bổ sung hình thức lấy ý kiến là tham vấn chính sách
Điều 30 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 đã bổ sung hình thức lấy ý kiến là tham vấn chính sách trong quá trình xây dựng chính sách dự án luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Cụ thể:
Tổ chức lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội, Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan;
Tổ chức hội nghị tham vấn Thường trực Hội đồng Dân tộc, Thường trực Ủy ban của Quốc hội, Bộ, cơ quan ngang Bộ đối với chính sách liên quan trực tiếp thuộc phạm vi, lĩnh vực phụ trách trong quá trình xây dựng chính sách.
Đây là một trong những hình thức mới để lấy ý kiến nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế hiện nay trong quy trình xây dựng pháp luật, nhất là trong quy trình lập đề nghị việc xây dựng chính sách chưa được quan tâm đúng mức, chính sách được đề ra còn chung chung.
Theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025, quy trình chính sách đóng vai trò quan trọng, chất lượng của chính sách sẽ quyết định đến chất lượng của dự thảo VBQPPL. Thông qua hoạt động tham vấn chính sách, cơ quan đề xuất chính sách sẽ tìm kiếm sự đồng thuận, lựa chọn giải pháp tối ưu, hoàn thiện chính sách làm cơ sở soạn thảo VBQPPL, cũng như bảo đảm tính khả thi của chính sách trong cuộc sống.
Xử lý hiệu lực văn bản khi chia tách, nhập, điều chỉnh địa giới hành chính
Kể từ ngày 01/7/2025, việc xác định hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật trong trường hợp có thay đổi về địa giới hành chính được quy định rõ ràng tại khoản 20 Điều 1 Luật số 87/2025/QH15, sửa đổi khoản 2 Điều 54 Luật số 64/2025/QH15.
Theo đó, các văn bản của HĐND, UBND, Chủ tịch UBND sẽ được xử lý hiệu lực theo 4 tình huống cụ thể:
Trường hợp chia đơn vị hành chính
Nếu một đơn vị hành chính được chia thành nhiều đơn vị hành chính mới cùng cấp, thì:
Văn bản của HĐND, UBND, Chủ tịch UBND của đơn vị hành chính bị chia tiếp tục có hiệu lực đối với các đơn vị hành chính mới,
Cho đến khi HĐND, UBND, Chủ tịch UBND của đơn vị mới có quyết định khác.
Trường hợp nhập các đơn vị hành chính
Nếu nhiều đơn vị hành chính được nhập thành một đơn vị hành chính mới cùng cấp, thì:
Văn bản của các đơn vị hành chính được nhập tiếp tục có hiệu lực trong phạm vi toàn đơn vị hành chính mới,
Cho đến khi có văn bản mới hoặc quyết định áp dụng hoặc bãi bỏ văn bản cũ.
Trường hợp điều chỉnh một phần địa giới
Nếu một phần địa giới hành chính được điều chỉnh về đơn vị khác, thì văn bản quy phạm pháp luật của đơn vị hành chính được mở rộng địa giới có hiệu lực đối với phần địa giới được điều chỉnh.
Trường hợp khác
Nếu không thuộc các trường hợp nêu trên:
Văn bản đang có hiệu lực trong phạm vi địa giới cũ vẫn tiếp tục có hiệu lực,
Trừ khi đã bị sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ bởi văn bản mới hoặc có quyết định khác.
Ngoài ra, Luật yêu cầu phải quy định rõ phạm vi hiệu lực về không gian của văn bản ngay tại chính văn bản đó.
Điểm mới của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2025 về việc viện dẫn văn bản quy phạm pháp luật
Tại Điều 68 Nghị định 78/2025/NĐ-CP (được sửa đổi bởi Khoản 38 Điều 1 Nghị định 187/2025/NĐ-CP hướng dẫn Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2025 quy định về việc viện dẫn văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện như sau:
Đối với văn bản được viện dẫn là luật, pháp lệnh
Khi viện dẫn phải ghi đầy đủ tên văn bản và số, ký hiệu của văn bản;
Đối với văn bản đã được sửa đổi, bổ sung thì ghi thêm sau tên văn bản, số, ký hiệu của văn bản cụm từ “được sửa đổi, bổ sung bởi” và tên loại văn bản, số, ký hiệu của văn bản sửa đổi, bổ sung;
Trường hợp được sửa đổi, bổ sung nhiều lần thì từ lần sửa đổi, bổ sung lần thứ hai trở đi chỉ ghi tên loại văn bản, số, ký hiệu của văn bản sửa đổi, bổ sung;
Lần viện dẫn tiếp theo, ghi tên loại văn bản, số, ký hiệu của văn bản;
Đối với văn bản đã được sửa đổi, bổ sung thì ghi thêm sau số, ký hiệu của văn bản cụm từ “được sửa đổi, bổ sung bởi” và tên loại văn bản, số, ký hiệu văn bản.
Đối với văn bản khác
Khi viện dẫn lần đầu phải ghi tên loại văn bản, số, ký hiệu văn bản và tên gọi của văn bản.
Đối với văn bản đã được sửa đổi, bổ sung thì ghi thêm sau tên gọi của văn bản cụm từ “được sửa đổi, bổ sung bởi” và tên loại văn bản, số, ký hiệu văn bản;
Trường hợp được sửa đổi, bổ sung nhiều lần thì từ lần thứ hai trở đi chỉ ghi tên loại văn bản, số, ký hiệu văn bản;
Lần viện dẫn tiếp theo, ghi tên loại văn bản, số, ký hiệu của văn bản;
Đối với văn bản đã được sửa đổi, bổ sung thì ghi thêm sau số, ký hiệu của văn bản cụm từ “được sửa đổi, bổ sung bởi” và tên loại văn bản, số, ký hiệu văn bản.
Lưu ý: Việc viện dẫn phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của văn bản thì phải nêu rõ số thứ tự của phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản hoặc thứ tự điểm; trường hợp viện dẫn đến văn bản khác thì phải nêu thêm tên văn bản.
Trên đây là cập nhật điểm mới của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2025. Quý khách hàng có thắc mắc liên quan vui lòng liên hệ Luật Việt An để được tư vấn hỗ trợ tốt nhất!