Nghị định 219/2025/NĐ-CP quy định về người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam
(có hiệu lực từ ngày 7/8/2025)
Trong bối cảnh Việt Nam đang thu hút mạnh mẽ nguồn nhân lực chất lượng cao để phục vụ các ngành trọng điểm như chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, tài chính, công nghệ cao…, việc cải tiến các quy định về cấp giấy phép lao động được xem là một trong những “chìa khóa” để giữ chân và thu hút nhân tài quốc tế. Do đó, ngày 07/08/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định 219/2025/NĐ-CP quy định về người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Văn bản này thay thế Nghị định 152/2020/NĐ-CP và Nghị định 70/2023/NĐ-CP, được đánh giá là một bước tiến quan trọng trong việc cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa quy trình và tăng tính linh hoạt cho doanh nghiệp. Bài viết dưới đây của Luật Việt An sẽ cung cấp một số điểm mới của Nghị định 219/2025/NĐ-CP đối với cấp Giấy phép lao động cho người nước ngoài.
Bỏ yêu cầu 3 năm kinh nghiệm đối với chuyên gia
Căn cứ khoản 3 Điều 3 Nghị định 219/2025/NĐ-CP, về điều kiện cấp Giấy phép lao động cho chuyên gia không còn yêu cầu kinh nghiệm 3 năm. Thay vào đó có sự linh hoạt hơn:
Có bằng đại học trở lên và ít nhất 2 năm kinh nghiệm làm việc phù hợp; hoặc
Có bằng đại học và ít nhất 1 năm kinh nghiệm nếu làm trong các lĩnh vực đặc thù như: khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia hoặc lĩnh vực ưu tiên phát triển kinh tế – xã hội.
Trước đây, yêu cầu 3 năm kinh nghiệm khiến nhiều chuyên gia trẻ, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ, đổi mới sáng tạo, AI, fintech khó tiếp cận thị trường lao động Việt Nam dù có bằng cấp và năng lực nổi bật. Quy định mới giúp mở rộng cửa cho nhân tài trẻ, linh hoạt hơn với nhu cầu phát triển các ngành công nghệ cao – nơi đổi mới quan trọng hơn thâm niên.
UBND tỉnh có thẩm quyền cấp giấy phép lao động
Theo Điều 4 Nghị định 219/2025/NĐ-CP, thẩm quyền trong việc cấp mới, cấp lại, gia hạn, thu hồi giấy phép lao động cũng như giấy xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động như sau:
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền cấp, cấp lại, gia hạn, thu hồi giấy phép lao động và giấy xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động đối với người lao động nước ngoài làm việc cho người sử dụng lao động có trụ sở, chi nhánh, văn phòng đại diện hoặc địa điểm kinh doanh tại địa phương nơi người lao động nước ngoài dự kiến làm việc.
Trường hợp người lao động nước ngoài làm việc cho một người sử dụng lao động tại nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi người sử dụng lao động có trụ sở chính có thẩm quyền cấp, cấp lại, gia hạn, thu hồi giấy phép lao động và giấy xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định việc phân cấp cho cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc cấp, cấp lại, gia hạn, thu hồi giấy phép lao động và giấy xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động theo quy định của pháp luật.
Trước kia, doanh nghiệp phải làm việc chủ yếu với Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, nhiều trường hợp còn phải xin ý kiến Bộ, gây mất thời gian. Việc phân quyền cho UBND tỉnh giúp giải quyết hồ sơ nhanh hơn, rõ trách nhiệm hơn, phù hợp với thực tế khi hầu hết lao động nước ngoài làm việc tại địa phương.
Nộp hồ sơ cấp giấy phép lao động và lý lịch tư pháp trực tuyến
Tại khoản 3 Điều 6 Nghị định 219/2025/NĐ-CP, bổ sung quy trình liên thông thực hiện đồng thời thủ tục cấp giấy phép lao động và thủ tục cấp Phiếu lý lịch tư pháp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia.
Theo đó, người sử dụng lao động được phép nộp trực tuyến cùng lúc các loại hồ sơ sau đây:
Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động;
Hồ sơ đề nghị cấp Phiếu lý lịch tư pháp (theo ủy quyền từ người lao động nước ngoài).
Quy trình liên thông được vận hành giữa Cổng Dịch vụ công quốc gia, cơ quan cấp giấy phép lao động (thuộc UBND tỉnh) và cơ quan công an cấp Phiếu lý lịch tư pháp.
Kết quả giải quyết thủ tục bao gồm giấy phép lao động và Phiếu lý lịch tư pháp bản điện tử, được trả về đồng thời thông qua Cổng dịch vụ công quốc gia.
Thực tế, người lao động nước ngoài thường găp khó khăn khi phải tự xin lý lịch tư pháp ở nước ngoài hoặc qua nhiều cơ quan trong nước. Việc tích hợp thủ tục trực tuyến giảm chi phí, thời gian, rủi ro, thúc đẩy chuyển đổi số hành chính công.
Mở rộng 15 trường hợp miễn Giấy phép lao động
Tại Điều 7 Nghị định 219/2025/NĐ-CP quy định 15 trường hợp người nước ngoài không thuộc diện phải có giấy phép lao động tại Việt Nam.
Trong đó, đã bổ sung thêm trường hợp người nước ngoài làm việc trong các lĩnh vực tài chính, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia, lĩnh vực ưu tiên phát triển kinh tế – xã hội, được các bộ, cơ quan ngang bộ hoặc UBND cấp tỉnh xác nhận.
Các ngành nghề này đang thiếu hụt nhân lực chất lượng cao. Quy định mới này tạo điều kiện cho các chuyên gia nước ngoài tham gia phát triển các ngành mũi nhọn, thu hút đầu tư FDI công nghệ cao.
Người nước ngoài làm việc dưới 90 ngày/năm không cần Giấy phép lao động
Cụ thể điểm a khoản 13 Điều 7 Nghị định 219/2025/NĐ-CP, người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam có tổng thời gian làm việc dưới 90 ngày trong một năm (tính từ ngày 01/01 đến hết 31/12) không thuộc diện phải cấp giấy phép lao động.
Tuy nhiên, theo khoản 4 Điều 9 Nghị định này, người sử dụng lao động trong trường hợp nêu trên có trách nhiệm gửi thông báo bằng văn bản đến cơ quan có thẩm quyền trước ít nhất 03 ngày làm việc tính đến ngày người lao động nước ngoài bắt đầu làm việc.
So với quy định trước đây tại khoản 2 Điều 7 Nghị định 152/2020/NĐ-CP, người lao động nước ngoài cũng được miễn giấy phép lao động nếu làm việc dưới 30 ngày/lần và không quá 90 ngày/năm, nhưng chưa đặt ra nghĩa vụ thông báo.
Như vậy, quy định mới tại Nghị định số 219/2025/NĐ-CP được đánh giá là linh hoạt hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho chuyên gia nước ngoài làm việc ngắn hạn, đồng thời vẫn bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước thông qua cơ chế thông báo trước.
Quy định thông báo khi không cần giấy xác nhận miễn Giấy phép lao động
Theo khoản 4 Điều 9 Nghị định 219/2025/NĐ-CP, trường hợp quy định tại các khoản 4, 5, 6 và 8 Điều 154 của Bộ luật Lao động, quy định tại các khoản 2, 3, 5, 8, 10 và điểm a khoản 13 Điều 7 Nghị định 219 không phải làm thủ tục cấp giấy xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động nhưng:
Phải thông báo với cơ quan có thẩm quyền cấp giấy xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động nơi người lao động nước ngoài dự kiến làm việc
Thời hạn: trước ít nhất 03 ngày làm việc, kể từ ngày người lao động nước ngoài dự kiến bắt đầu làm việc tại Việt Nam.
Thông báo gồm các nội dung cơ bản sau: họ và tên, ngày tháng năm sinh, quốc tịch, số hộ chiếu, tên người sử dụng lao động nước ngoài, địa điểm làm việc và thời hạn làm việc.
Trước kia, người lao động và doanh nghiệp phải báo cáo với Bộ hoặc Sở, gây khó khăn và thiếu thống nhất. Nay chủ cần thông báo với cơ quan địa phương, vừa giảm thủ tục, vừa đảm bảo Nhà nước có dữ liệu quản lý.
Giấy phép lao động chỉ được gia hạn một lần, tối đa 2 năm
Theo Điều 29 Nghị định 219/2025/NĐ-CP, giấy phép lao động (GPLĐ) được gia hạn tối đa một lần duy nhất, với thời hạn không quá 02 năm.
Trước đó khoản 1 Điều 19 Nghị định 152/2020/NĐ-CP cho phép gia hạn nhiều lần, dẫn đến tình trạng lách luật để kéo dài làm việc mà không đánh giá lại nhu cầu. Quy định mới giúp quản lý chặt chẽ hơn, đảm bảo chỉ những lao dộng thực sự cần thiết mới được tiếp tục ở lại. Tuy nhiên, điều này cũng buộc doanh nghiệp phải chuẩn bị kế hoạch nhân sự rõ ràng.
Giấy phép lao động tại một tỉnh nhưng được làm việc ở nhiều địa phương
Theo quy định tại khoản 5 Điều 22 Nghị định 219/2025/NĐ-CP cho phép: Trường hợp người lao động nước ngoài đã được cấp giấy phép lao động có nhu cầu làm việc cho người sử dụng lao động đó tai nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, trước ít nhất 3 ngày dự kiến làm việc, người sử dụng lao động phải thông báo cho cơ quan có thẩm quyền nơi người lao động ngước ngoài dự kiến làm việc các thông tin cần thiết.
Quy định mới này tăng tính linh hoạt trong điều phối nhân sự, giảm gánh nặng thủ tục, phù hợp với đặc thù sản xuất – kinh doanh trải rộng.
Bổ sung căn cứ xác định thời hạn Giấy phép lao động
Tại Điều 21 Nghị định 219/2025/NĐ-CP quy định thời hạn của giấy phép lao động và giấy xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động tối đa không quá 02 năm.;
Thời hạn này được xác định căn cứ theo thời hạn của các loại giấy tờ liên quan, bao gồm: hợp đồng lao động, văn bản cử người lao động đi công tác, thỏa thuận quốc tế, giấy phép hoạt động của doanh nghiệp và các giấy tờ hợp pháp khác.
So với quy định tại khoản 1 Điều 10 Nghị định số 152/2020/NĐ-CP, cũng giới hạn tối đa 02 năm nhưng chưa liệt kê cụ thể, đầy đủ các loại căn cứ để xác định thời hạn, dẫn đến thực tiễn phát sinh vướng mắc, thiếu thống nhất trong cách hiểu và áp dụng tại các địa phương.
Việc bổ sung, làm rõ căn cứ xác định thời hạn tại Nghị định số 219/2025/NĐ-CP góp phần bảo đảm tính minh bạch, thống nhất và thuận lợi hơn trong quá trình áp dụng pháp luật.
Bổ sung quy định thu hồi Giấy phép lao động và giấy xác nhận miễn Giấy phép lao động
Theo Điều 30 và Điều 32 Nghị định 219/2025/NĐ-CP quy định các trường hợp bị thu hồi GPLĐ hoặc giấy xác nhận không thuộc diện cấp GPLĐ bao gồm:
Giấy tờ làm căn cứ cấp giấy phép lao động hoặc giấy xác nhận không còn hiệu lực;
Người lao động nước ngoài hoặc người sử dụng lao động vi phạm quy định về việc cấp, gia hạn hoặc sử dụng giấy phép lao động không đúng mục đích;
Người lao động nước ngoài bị khởi tố, truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật;
Người sử dụng lao động chấm dứt hoạt động theo quy định của pháp luật;
Có văn bản của phía cử lao động thông báo về việc ngừng làm việc tại Việt Nam.
Quy định cũ chưa đầy đủ, gây khó trong xử lý trường hợp vi phạm. So với các quy định trước đây, nội dung này tại Nghị định số 219/2025/NĐ-CP đã bổ sung và làm rõ các căn cứ thu hồi, khắc phục tình trạng quy định còn chung chung, chưa đầy đủ, gây khó khăn trong quá trình xử lý vi phạm. Nhờ đó, quy định mới góp phần siết chặt kỷ luật, bảo đảm quản lý chặt chẽ và ngăn chặn tình trạng lợi dụng giấy phép lao động để ở lại làm việc trái quy định.
Tổng quan các điểm mới của Nghị định 219/2025/NĐ-CP quy định về người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam
Nhìn chung, các điểm mới của Nghị định 219/2025/NĐ-CP thể hiện hai xu hướng chính:
Tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và lao động nước ngoài (nới điều kiện, mở rộng miễn giấy phép, liên thông thủ tục).
Siết chặt quản lý để tránh lạm dụng (giới hạn gia hạn, bổ sung quy định thu hồi, yêu cầu thông báo trước).
Điều này vừa thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, vừa đảm bảo an ninh lao động và trật tự quản lý, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội trong giai đoạn đẩy mạnh chuyển đổi số, thu hút FDI công nghệ cao và từng bước chuẩn hóa quản lý lao động nước ngoài.
Trên đây là tập hợp một số điểm mới của Nghị định 219/2025/NĐ-CP quy định về người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Ngoài những quy định được cung cấp phía trên, quý khách có thể liên hệ với chúng tôi – Luật Việt An để được cập nhật những thông tin quan trọng khác nhanh chóng và chuẩn xác nhất.