Quyết định 364/QĐ-CA công bố 7 án lệ mới áp dụng từ tháng 11 năm 2023
Ngày 01/10/2023, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Quyết định 364/QĐ-CA công bố 7 án lệ mới áp dụng từ tháng 11 năm 2023. Theo đó, 07 án lệ mới công bố chính thức này đã bổ sung vào hệ thống nguồn án lệ tại Việt Nam, nâng tổng số án lệ được công bố tại Việt Nam lên 70 án lệ.
Án lệ là gì?
Theo định nghĩa tại Điều 1 Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP: “Án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”.
Mục đích của việc áp dụng án lệ trong nghiên cứu và xét xử tại Tòa án là bảo đảm những vụ việc có tình huống pháp lý tương tự thì phải được giải quyết như nhau. Theo đó, khi đã có nguồn án lệ được công bố và có những tình huống pháp lý tương tự, nhưng Tòa án không áp dụng án lệ thì phải nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Tòa án.
Hiệu lực pháp lý của án lệ
Án lệ được công nhận là một nguồn luật hợp pháp theo Bộ luật Dân sự. Theo đó, các án lệ được công bố theo thủ tục thông qua án lệ được quy định bởi luật có thể được áp dụng như một nguồn luật đối với việc áp dụng pháp luật. Các Tòa án tại Việt Nam có thể nghiên cứu, áp dụng các án lệ đã được công bố chính thức như một căn cứ pháp lý trong xét xử bên cạnh các nguồn luật thành văn, tập quán và lẽ công bằng.
Theo quy định tại Điều 8 Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP thì hiệu lực của án lệ phát sinh sau 30 ngày kể từ ngày công bố. 07 án lệ mới công bố sẽ có hiệu lực áp dụng từ 01/11/2023 theo Điều 2 của Quyết định 364/QĐ-CA.
Nội dung Quyết định 364/QĐ-CA công bố 7 án lệ mới áp dụng từ tháng 11 năm 2023
Án lệ số 64/2023/AL về định khung hình phạt và tình định khung tăng nặng “có tổ chức” trong tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản”
Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 15/2022/HS-GĐT ngày 04/10/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án hình sự “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản” đối với bị cáo Trần Văn N và đồng phạm.
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: Điều 169 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Nội dung:
Trường hợp Bị cáo lên kế hoạch, chuẩn bị các công cụ, phương tiện phạm tội để bắt cóc bị hại nhằm chiếm đoạt tài sản nhưng chưa chiếm đoạt được tài sản thì bị cáo phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản”. Tòa án phải căn cứ vào giá trị tài sản bị cáo dự định chiếm đoạt để định khung hình phạt.
Trong số các bị cáo có bị cáo là người cầm đầu, khởi xướng, trực tiếp rủ các bị cáo khác tham gia việc bắt giữ bị hại nhằm chiếm đoạt tài sản, lên kế hoạch, phân công nhiệm vụ cho các bị cáo khác; giữa các bị cáo có sự cấu kết chặt chẽ, thực hiện hành vi nhất quán theo sự chỉ đạo của bị cáo cầm đầu. Khi đó, các bị cáo phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản” với tình tiết định khung tăng nặng “có tổ chức” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự.
Án lệ số 65/2023/AL về truy cứu trách nhiệm hình sự tội “Mua bán người”
Nguồn án lệ: Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2018/HSST ngày 03/12/2018 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu về vụ án “Mua bán người” đối với các bị cáo Dương Văn S, Phạm Hồng K, Dương Thị T1, Trần Ích C.
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: Điều 150 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 150 về tội mua bán người và Điều 151 về tội mua bán người dưới 16 tuổi của Bộ luật Hình sự.
Nội dung:
Bị cáo thông qua trung gian đưa ra lời đề nghị với bị hại về một công việc nên bị hại nhận lời. Sau đó, bị cáo chuyển giao bị hại cho người khác, buộc làm công việc trái ý muốn của bị hại nhằm mục đích kiếm lời. Trường hợp này, bị cáo phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Mua bán người”.
Án lệ số 66/2023/AL về việc xác định tội danh “Mua bán người”
Nguồn án lệ: Bản án hình sự phúc thẩm số 86/2022/HS-PT ngày 17/02/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về vụ án “Mua bán người” đối với các bị cáo Trịnh Thị H và Đặng Thị C.
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
Điều 150 và Điều 349 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP.
Nội dung:
Bị cáo có hành vi lừa gạt, hứa hẹn về lợi ích với bị hại làm cho bị hại tin tưởng và tự nguyện theo bị cáo ra nước ngoài, sau đó bị cáo giao bị hại cho người khác để nhận tiền. Trường hợp này, Tòa án phải xác định tội danh của bị cáo là tội “Mua bán người” mà không phải tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài trái phép”.
Án lệ số 67/2023/Al về người được nhận hiện vật khi chia tài sản chung
Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 40/2021/DS-GĐT ngày 23/6/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về vụ án dân sự “Tranh chấp chia tài sản chung” giữa nguyên đơn là cụ Nguyễn Thị Đ với bị đơn là anh Phạm Ngọc H; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 06 người.
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: Điều 209 và Điều 219 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Nội dung:
Trong vụ án chia tài sản chung là quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất, một bên là người cao tuổi đã tạo lập, quản lý và sử dụng nhà đất ổn định, lâu dài, có nguyện vọng nhận nhà đất và thanh toán giá trị phần tài sản của người còn lại cho người đó. Nhà đất không thể chia được bằng hiện vật. Trường hợp này, Tòa án phải quyết định giao nhà đất cho người cao tuổi và người cao tuổi phải thanh toán giá trị phần tài sản của người còn lại cho người đó.
Án lệ số 68/2023 về quyền nhận di sản bằng hiện vật là nhà ở của người thừa kế là người Việt Nam định cư ở nước ngoài
Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 06/2019/DS-GĐT ngày 18/3/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án dân sự “Tranh chấp thừa kế, đòi công sức đóng góp nuôi dưỡng, trông nom, bảo quản nhà, đất và đòi nhà, đất” giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Túy H với bị đơn là bà Lý Lan H1; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 06 người.
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
Điểm d khoản 1 Điều 169; Điều 186 Luật Đất đai năm 2013;
Khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 8 Luật Nhà ở năm 2014.
Nội dung:
Người để lại di sản là quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất chết trước ngày Luật Đất đai năm 2013 và Luật Nhà ở năm 2014 có hiệu lực pháp luật. Tranh chấp về chia thừa kế tài sản được Tòa án giải quyết tại thời điểm Luật Đất đai năm 2013 và Luật Nhà ở năm 2014 có hiệu lực pháp luật. Trường hợp này:
Tòa án áp dụng Luật Đất đai năm 2013 và Luật Nhà ở năm 2014 để giải quyết.
Trường hợp có người thừa kế là người Việt Nam định cư ở nước ngoài thì người thừa kế được nhận di sản bằng hiện vật là nhà ở khi đủ điều kiện nhận nhà ở theo Luật Nhà ở năm 2014 và di sản có thể phân chia bằng hiện vật.
Án lệ số 69/2023/AL về thẩm quyền của Trọng tài thương mại trong việc giải quyết tranh chấp thỏa thuận bảo mật thông tin và không cạnh tranh
Nguồn án lệ: Quyết định số 755/2018/QĐ-PQTT ngày 12/6/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc dân sự “Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài”; người yêu cầu là bà Đỗ Thị Mai T, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công ty TNHH R.
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
Khoản 2 Điều 2, Điều 13 và khoản 4 Điều 35 Luật Trọng tài thương mại năm 2010;
Khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Điều 6 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Luật Trọng tài thương mại.
Nội dung:
Người lao động và người sử dụng lao động ký kết thỏa thuận bảo mật thông tin và không cạnh tranh về việc sau khi chấm dứt hợp đồng lao động, người lao động không được làm công việc tương tự hoặc công việc cạnh tranh với người sử dụng lao động trong thời hạn nhất định, nếu có tranh chấp sẽ giải quyết bằng Trọng tài thương mại. Trường hợp này, Tòa án phải xác định tranh chấp về thỏa thuận bảo mật thông tin và không cạnh tranh giữa hai bên là thỏa thuận độc lập với hợp đồng lao động, thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài thương mại.
Án lệ số 70/2023/AL về việc chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động là cán bộ công đoàn không chuyên trách
Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 06/2022/LĐ-GĐT ngày 26/9/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án lao động “Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động” giữa nguyên đơn là ông Vương Quốc A với bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn K Việt Nam.
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
Điều 36 Bộ luật Lao động năm 2012 (tương ứng với Điều 34 Bộ luật Lao động năm 2019); Điều 192 Bộ luật Lao động năm 2012;
Điều 25 Luật Công đoàn năm 2012.
Nội dung:
Người lao động và người sử dụng lao động ký kết hợp đồng lao động xác định thời hạn. Trong thời hạn hợp đồng, người lao động trúng cử Chủ tịch Ban chấp hành công đoàn cơ sở nhưng việc ứng cử và trúng cử là không hợp lệ. Hết thời hạn hợp đồng, người sử dụng lao động ban hành quyết định chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động. Trường hợp này, Tòa án phải xác định người sử dụng lao động chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động là đúng.
Trên đây là nội dung cập nhật của Luật Việt An về 07 án lệ mới được công bố theo Quyết định 364/QĐ-CA, có hiệu lực từ tháng 11/2023. Quý khách hàng có nhu cầu tư vấn, đại diện giải quyết tranh chấp, tư vấn pháp luật dân sự, hình sự liên quan, vui lòng liên hệ đến Luật Việt An để được hỗ trợ tốt nhất.