Các loại tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài thương mại

Trong các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại hiện nay, trọng tài thương mại được xem là có nhiều ưu điểm: phù hợp với lựa chọn của các bên tranh chấp, ít tốn kém về thời gian, đảm bảo bí mật kinh doanh cũng như hòa khí giữa các đối tác. Chính vì vậy, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại được các thương nhân tin tưởng lựa chọn để giải quyết tranh chấp ngày một nhiều hơn. Tuy nhiên không phải tranh chấp nào cũng được giải quyết bằng trọng tài thương mại. Vậy, các loại tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài thương mại là các loại tranh chấp nào?

Căn cứ pháp lý

  • Luật Trọng tài thương mại năm 2010.
  • Luật Thương mại năm 2005.

Trọng tài thương mại là gì?

Trọng tài thương mại là cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án thuận lợi cho các bên, đặc biệt là các bên tham gia các hoạt động thương mại, đầu tư. Trong giao dịch dân sự thường ngày, nhất là các giao dịch kinh tế thương mại, việc phát sinh tranh chấp là điều không thể tránh khỏi và giải quyết các tranh chấp phát sinh một cách nhanh chóng, hiệu quả, công bằng là góp phần thúc đẩy các hoạt động kinh tế, thương mại, đầu tư, tạo sự yên tâm cho các bên ngay từ khi mới hình thành quan hệ và cả khi có phát sinh tranh chấp.

Căn cứ Khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài Thương mại 2010 quy định: “Trọng tài Thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này”. Đây được coi là phương thức giải quyết tranh chấp thay thế (ADR) hữu hiệu được sử dụng phổ biến bởi các doanh nghiệp hiện nay.

Điều kiện để được giải quyết bằng trọng tài thương mại

Nếu điều kiện cần để các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài là phạm vi tranh chấp thuộc thẩm quyền của trọng tài và chủ thể tranh chấp được phép thỏa thuận giải quyết bằng trọng tài thì điều kiện đủ là giữa các bên tồn tại một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực pháp luật. Bởi vậy mà thỏa thuận trọng tài là vấn đề then chốt và có vai trò quyết định đối với việc áp dụng trọng tài như một phương thức giải quyết tranh chấp. Như vậy, có 2 điều kiện để một tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài thương mại

  • Tranh chấp phát sinh thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại
  • Phải có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài không vô hiệu, không thuộc các trường hợp không thực hiện được.

Các loại tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài thương mại

Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại được các thương nhân tin tưởng lựa chọn để giải quyết tranh chấp giữa các bên ngày một nhiều hơn. Tuy nhiên, không phải tranh chấp nào cũng được giải quyết bằng trọng tài thương mại.

Với tư cách là thiết chế giải quyết tranh chấp, trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết tất cả các tranh chấp thương mại gồm: tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài.

Nhóm thứ nhất: tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại

Đối với nhóm này đòi hỏi các bên tranh chấp đều có hoạt động thương mại với phạm vi khái niệm “hoạt động thương mại” được quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 bao gồm các hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động khác có mục đích sinh lợi.

Tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại rất dễ nhầm lẫn với các tranh chấp dân sự thông trường trong cùng lĩnh vực. Sự khác biệt với tranh chấp dân sự thông thường trong cùng lĩnh vực thể hiện ở hai yếu tố:

  • Chủ thể: đối với tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, các bên tranh chấp đều là các thương nhân, các cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh. Còn đối với tranh chấp dân sự, chủ thể tham gia không bắt buộc đăng ký kinh doanh.
  • Mục đích tham gia giao dịch: đối với tranh chấp từ hoạt động thương mại các bên tranh chấp đều có mục đích tìm kiếm lợi nhuận, còn đối với tranh chấp dân sự không cần yêu cầu các bên phải có mục đích lợi nhuận.

Nhóm thứ hai: tranh chấp giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại

Đối với nhóm loại việc này, đòi hỏi chỉ cần một bên tranh chấp thực hiện hoạt động thương mại với mục đích sinh lời còn bên còn lại có thể tham gia quan hệ này với mục đích khác như sở hữu, tiêu dùng…Mặc dù vậy, quy định về “tranh chấp phát sinh trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại” vẫn còn tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau.

  • Cách hiểu thứ nhất, với quy định này chỉ cần một bên trong quan hệ tranh chấp có hoạt động thương mại và lĩnh vực phát sinh tranh chấp là bất cứ lĩnh vực nào sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài. Ví dụ, tranh chấp phát sinh từ thỏa thuận bảo mật thông tin và không cạnh tranh giữa người sử dụng lao động với người lao động, trong đóngười sử dụng lao động là một doanh nghiệp – hay nói cách khác là thương nhân, có hoạt động thương mại; tranh chấp phát sinh từ quan hệ lao động. Bộ luật lao động năm 2019 không trao cho trọng tài thương mại thẩm quyền giải quyết tranh chấplao động cá nhân mà trao thẩm quyền giải quyết tranh chấp này cho các chủ thể khác như: hòa giải viên lao động, hội đồng trọng tài lao động, tòa án nhân dân. Tuy nhiên, theo cách hiểu thứ nhất thì tranh chấp trong quan hệ lao động đề cập trên sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài.
  • Cáchhiểu thứ hai, chỉ cần một bên chủ thể có hoạt động thương mại và lĩnh vực phát sinh tranh chấp phải là các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại – là các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi nhuận mà không phải là các tranh chấp phát sinh từ lĩnh vực lao động hay hôn nhân, gia đình…Đây là cách hiểu phổ biến vì cho rằng cụm từ “hoạt động thương mại” đã chỉ rõ điều đó là chỉ các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại.

Nhóm thứ ba: tranh chấp giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài.

Đối với nhóm loại việc này thì tiêu chí thực hiện hoạt động thương mại không còn được đặt ra mà chỉ cần pháp luật chuyên ngành cho phép các bên tham gia quan hệ pháp luật được lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp thì vụ việc đương nhiên thuộc thẩm quyền của trọng tài. Ví dụ tại Điều 338 Bộ luật hàng hải năm 2015 quy định về nguyên tắc giải quyết tranh chấp hàng hải: “Các bên liên quan có thể giải quyết tranh chấp hàng hải bằng thương lượng, thỏa thuận hoặc khởi kiện tại Trọng tài hoặc Tòa án có thẩm quyền”.

Như vậy, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã quy định phạm vi loại việc mở rộng đáng kể phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài so với Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003.

Phải có thỏa thuận trọng tài thì tranh chấp mới được giải quyết bằng trọng tài thương mại

Thẩm quyền của trọng tài không phải là thẩm quyền đương nhiên mà là thẩm quyền theo sự lựa chọn, nghĩa là trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp nếu được các bên lựa chọn bằng một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực. Thông qua thỏa thuận trọng tài, các bên tranh chấp thống nhất giao cho trọng tài quyền thay mặt họ trong việc xem xét nội dung tranh chấp và đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên.

Vì vậy mà thỏa thuận trọng tài được khẳng định là nền móng của tố tụng trọng tài thương mại, là vấn đề then chốt trong việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài. Thỏa thuận trọng tài dù được ký kết như là một điều khoản trong hợp đồng hay là một thỏa ước độc lập có tính bổ sung cho hợp đồng đã ký thì giá trị pháp lý của nó là như nhau và đều thể hiện rõ ý chí và sự thống nhất ý chí trong việc lựa chọn tổ chức trọng tài hay trọng tài viên có thẩm quyền. Tuy nhiên, một thỏa thuận trọng tài chỉ có giá trị pháp lý khi nó đáp ứng được yêu cầu của pháp luật về nội dung và hình thức. Theo đó, một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực được suy đoán là thỏa thuận trọng tài không bị vô hiệu trong. Căn cứ Điều 18 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu trong các trường hợp sau:

  • Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của trọng tài.
  • Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
  • Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự.
  • Hình thức của thỏa thuận không phù hợp.
  • Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó là vô hiệu.
  • Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.

Kể cả tranh chấp có thuộc phạm vi loại việc theo quy định của pháp luật trọng tài mà không có thỏa thuận trọng tài thì loại tranh chấp đó cũng không được giải quyết bằng trọng tài thương mại. Có thể khẳng định, thỏa thuận trọng tài là cơ sở để trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp. Tuy nhiên, các bên chỉ được phép thỏa thuận chọn trọng tài đối với những lĩnh vực mà pháp luật quy định trọng tài được giải quyết. Đây là yếu tố quyết định hiệu lực của thỏa thuận trọng tài, trên cơ sở đó mới phát sinh tố tụng trọng tài khi có tranh chấp xảy ra.

Quý khách hàng có nhu cầu tư vấn pháp luật doanh nghiệp, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại xin vui lòng liên hệ Công ty Luật Việt An để được hỗ trợ nhanh nhất, hiệu quả nhất!

Mục lục

Bài viết liên quan

Mục lục
Ẩn

    Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài

    Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài

    Văn bản pháp luật

    Văn bản pháp luật

    Tư vấn pháp luật

    Tư vấn luật

    LIÊN HỆ CÔNG TY LUẬT VIỆT AN

    Tư vấn doanh nghiệp: 09 79 05 77 68
    Tư vấn doanh nghiệp
    Tư vấn sở hữu trí tuệ: 0976 18 66 08
    Tư vấn sở hữu trí tuệ
    Tư vấn đầu tư: 09 13 380 750
    Tư vấn đầu tư

    TỔNG ĐÀI PHÍA BẮC

    Hotline: 09 61 37 18 18
    (Whatsapp, Zalo, Viber) hanoi@vietanlaw.vn Skype IconSkype Chat
    Tư vấn kế toán - thuế: 09 888 567 08
    Dịch vụ kế toán thuế
    Tư vấn giấy phép: 0966 83 66 08
    Tư vấn giấy phép
    Tư vấn hợp đồng: 0913 380 750
    Tư vấn hợp đồng

    TỔNG ĐÀI PHÍA NAM

    Hotline: 09 61 57 18 18

    (Whatsapp, Zalo, Viber)
    hcm@vietanlaw.vn
    Skype IconSkype Chat

    Liên hệ tư vấn
    Cảnh báo lừa đảo
    CẢNH BÁO MẠO DANH CÔNG TY LUẬT VIỆT AN LỪA ĐẢO