Trọng tài thương mại không có thẩm quyền đương nhiên như tòa án quốc gia mà chỉ có thẩm quyền khi các bên được quyền chọn và đã minh thị lựa chọn trọng tài. Chính các bên trong tranh chấp bằng một thỏa thuận trọng tài là những người trao quyền xét xử cho một hội đồng trọng tài cụ thể. Tuy nhiên, cũng giống như mọi thỏa thuận dân sự khác, thỏa thuận trọng tài chỉ phát sinh hậu quả pháp lý, tức là trao quyền xét xử cho trọng tài khi thỏa thuận trọng tài đó hợp pháp. Pháp luật về thỏa thuận trọng tài được hiểu là tập hợp những quy định của pháp luật về những vấn đề liên quan đến thỏa thuận trọng tài như: khái niệm thỏa thuận trọng tài; phân loại thỏa thuận trọng tài; hình thức thỏa thuận trọng tài; hiệu lực của thỏa thuận trọng tài; tính độc lập của thỏa thuận trọng tài và những vấn đề khác có liên quan.
Khái niệm thỏa thuận trọng tài thương mại
Khoản 1 Điều 7 Luật Mẫu UNCITRAL quy định: “Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận mà các bên đưa ra trọng tài mọi hoặc các tranh chấp nhất định phát sinh hoặc có thể phát sinh giữa các bên về quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không phải là quan hệ hợp đồng. Thỏa thuận trọng tài có thể dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng.” Như vậy, Luật Mẫu UNCITRAL không chỉ ghi nhận thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận của các bên đưa ra trọng tài để giải quyết các tranh chấp đã phát sinh hoặc có thể phát sinh mà còn bao gồm cả nội dung về những tranh chấp được thỏa thuận giải quyết bằng trọng tài và hình thức xác lập của thỏa thuận trọng tài.
Trong khi đó, pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ ghi nhận thỏa thuận trọng tài là sự thỏa thuận của các bên về việc đưa các tranh chấp đã phát sinh hoặc có thể phát sinh ra giải quyết bằng trọng tài. Khoản 2 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định:“Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh”.
Thỏa thuận trọng tài theo quy định tại Luật Trọng tài thương mại năm 2010 là sự thỏa thuận của các bên về việc giải quyết các tranh chấp có thể sẽ xảy ra trong tương lai hoặc tranh chấp đã xảy ra bằng con đường trọng tài thương mại.
Phân loại thỏa thuận trọng tài thương mại
Khoản 1 Điều 7 Luật Mẫu UNCITRAL quy định: “Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận mà các bên đưa ra trọng tài mọi hoặc các tranh chấp nhất định phát sinh hoặc có thể phát sinh giữa các bên về quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không phải là quan hệ hợp đồng”. Theo quy định của Luật Mẫu UNCITRAL thì thỏa thuận trọng tài được chia thành hai loại:
Thỏa thuận trọng tài được xác lập trước khi tranh chấp phát sinh: thỏa thuận trọng tài loại này được xác lập để giải quyết tranh chấp “có thể phát sinh” trong tương lai.
Thỏa thuận trọng tài được xác lập sau khi tranh chấp phát sinh: thỏa thuận trọng tài loại này được xác lập để giải quyết những tranh chấp đã phát sinh giữa các bên.
Trong khi đó, Khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định: “Tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài nếu trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thỏa thuận trọng tài”. Theo quy định trên, căn cứ vào thời điểm xác lập thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài được phân chia thành hai loại là:
Thỏa thuận trọng tài được xác lập trước khi tranh chấp phát sinh
Thỏa thuận trọng tài được xác lập sau khi tranh chấp phát sinh
Hình thức thỏa thuận trọng tài
Trong pháp luật Việt Nam, hình thức của thỏa thuận trọng tài được quy định tại Khoản 2 Điều 16 Luật Trọng tài thương mại 2010. Thỏa thuận trọng tài phải được xác lập bằng văn bản hoặc các hình thức khác được coi là văn bản như:
Thỏa thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật
Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên.
Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên.
Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác.
Qua trao đổi về đơn kiện và bản thân tự bảo vệ mà trong đó có thể hiện sự tồn tại của thỏa thuận do một bên đưa và bên kia không phủ nhận.
Thời điểm xác lập thỏa thuận trọng tài thương mại
Theo quy định của Luật Trọng tài thương mại 2010 thì tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài thương mại là “tranh chấp có thể phát sinh” hoặc “đã phát sinh”. Như vậy, thời điểm hai bên thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có thể là trước khi tranh chấp giữa hai bên xảy ra hoặc vào thời điểm sau khi có tranh chấp đã xảy ra.
Thứ nhất, thỏa thuận trọng tài được xác lập trước khi tranh chấp xảy ra. Ví dụ: công ty H mua hàng hóa của công ty M, trong hợp đồng mua bán hàng hóa, hai bên có thỏa thuận về điều khoản giải quyết tranh chấp như sau:“ Mọi tranh chấp phát sinh hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải quyết chung thẩm tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) theo quy tắc tố tụng trọng tài của trung tâm này”.
Thứ hai, thỏa thuận trọng được xác lập sau khi tranh chấp đã xảy ra. Ví dụ: công ty A thuê công ty B gia công các sản phẩm đồ thủ công mỹ nghệ, trong hợp đồng thuê không có điều khoản về giải quyết tranh chấp. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, công ty B đã vi phạm các thỏa thuận trong hợp đồng nên giữa hai bên xảy ra tranh chấp. Sau khi tranh chấp xảy ra, công ty A và công ty B đã lập một văn bản thỏa thuận về việc đưa tranh chấp phát sinh từ hợp đồng gia công ra giải quyết tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC).
Các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu
Thỏa thuận trọng tài vô hiệu là thỏa thuận được xác lập không tuân thủ quy định của pháp luật và không có giá trị ràng buộc các bên tranh chấp. Theo quy định tại Điều 18 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 thì thỏa thuận trọng tài vô hiệu trong các trường hợp sau:
Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài quy định tại Điều 2 của Luật này;
Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự;
Hình thức của thỏa thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 của Luật này;
Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó là vô hiệu;
Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.
Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài
Thỏa thuận trọng tài là cơ sở để xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài. Nếu không có thỏa thuận trọng tài thì trọng tài không có thẩm quyền cho dù tranh chấp đó có thể được giải quyết bằng phương thức trọng tài. Tuy nhiên, bản thân sự tồn tại của một thỏa thuận trọng tài là chưa đủ, để trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thì thỏa thuận này phải có giá trị pháp lý ở thời điểm phát sinh tranh chấp. Một thỏa thuận trọng tài được coi là có hiệu lực khi đáp ứng đồng thời các điều kiện sau:
Điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài;
Người tham gia ký kết thỏa thuận trọng tài có năng lực hành vi dân sự;
Thỏa thuận trọng tài không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
Người tham gia ký kết thỏa thuận trọng tài hoàn toàn tự nguyện;
Hình thức của thỏa thuận trọng tài phải bằng văn bản.
Tính độc lập của thỏa thuận trọng tài
Khoản 1 Điều 16 Luật Mẫu UNCITRAL quy định: “…Điều khoản trọng tài trở thành bộ phận của hợp đồng sẽ được coi là thỏa thuận độc lập với các điều khoản khác của hợp đồng. Quyết định của ủy ban trọng tài về hợp đồng bị vô hiệu không làm cho điều khoản trọng tài bị vô hiệu theo”. Như vậy, Luật Mẫu quy định các điều khoản trọng tài tồn tại độc lập với các điều khoản còn lại của hợp đồng và nếu hợp đồng bị tuyên vô hiệu thì cũng không làm mất đi hiệu lực của điều khoản trọng tài.
Điều 19 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định về tính độc lập của thỏa thuận trọng tài: “Thỏa thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thỏa thuận trọng tài”. Theo đó:
Thỏa thuận trọng tài có thể là một điều khoản của hợp đồng hoặc là một văn bản riêng biệt. Nhưng dù là một điều khoản hợp đồng hay một văn bản riêng biệt thì thỏa thuận trọng tài cũng tồn tại độc lập với hợp đồng.
Thỏa thuận trọng tài xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp, bởi vậy, nó mang tính tố tụng và hiệu lực của thỏa thuận trọng tài không phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng.
Cần phải xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài một cách độc lập với hiệu lực của hợp đồng, ngay cả khi thỏa thuận trọng tài là một điều khoản của hợp đồng.
Doanh nghiệp có nhu cầu tư vấn pháp luật doanh nghiệp, giải quyết tranh chấp thông qua phương thức trọng tài thương mại xin vui lòng liên hệ Công ty Luật Việt An để được Luật sư có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn cao hỗ trợ nhanh nhất, hiệu quả nhất!